kythuatamthanhanhsang.blogspot.com
dẫn từ nguồn: http://thuviencuoi.vn/forum/bai-viet/20114-Anh-sang-va-ky-thuat-trong-quay-phim.html
1. Họa
sĩ vẽ bằng ánh sáng
Thời trước, công việc quay
phim được giao cho một người. Người này không chỉ sử dụng máy quay mà còn phải
rửa và tráng phim trong phòng kín. Tuy nhiên theo thời gian, khi nghệ thuật
quay phim ngày càng phát triển và trở nên phức tạp, nhiệm vụ của nhà quay phim
dần dần đặc trưng hơn và sự đóng góp của họ trong bộ phim ngày càng quan trọng.
Rất nhiều sáng tạo kỹ thuật ghi nhận cho đạo diễn D.W.Griffith bắt nguồn từ nhà
quay phim của ông, Billy Bitzer, hoặc sự cộng tác thân thiết đầy sáng tạo giữa
hai người.
Không bắt buộc là người trực
tiếp cầm máy quay, nhưng họ phải chuyển tải được ý tưởng của biên kịch và đạo
diễn thành hình ảnh sống động. Dưới tay đạo diễn hình ảnh có nhiều người phụ
trách từng việc riêng biệt. Những người này giúp đạo diễn hình ảnh rảnh rang để
giải quyết trách nhiệm chính - sáng tạo tâm trạng, không khí, kiểu quay phù hợp
cho mỗi cảnh và duy trì chất lượng những việc này trong suốt cả phim.
Đạo diễn hình ảnh được coi
là hoạ sĩ vẽ bằng ánh sáng. "Nếu
không nhờ trình độ và tài năng của đạo diễn hình ảnh thì không thể nào chuyển
tác phẩm của nhà văn thành những cảnh phim sống động cho mọi người xem",
nhà quay phim Michael Benson nói. Vai trò của đạo diễn hình ảnh bắt đầu từ khi
phim còn chưa bắt đầu bấm máy. Họ thường xuyên phải hội ý với nhà sản xuất và đạo
diễn về vô số chi tiết kỹ thuật, kể cả sự lựa chọn nguyên liệu phim và phòng
kín. Họ cũng thường chọn địa điểm được tả trong kịch bản để chắc chắn nó thích
hợp với cảnh quay, tính toán bao nhiêu máy quay và dụng cụ ánh sáng đủ để quay
cảnh đó. Đạo diễn nghệ thuật và hoạ sĩ thiết kế phông màn cùng thảo luận với đạo
diễn hình ảnh về góc độ ánh sáng và cách lắp đặt máy quay trong mỗi cảnh.
Nhiều người nghĩ rằng đạo
diễn chỉ cho diễn viên những việc phải làm và đạo diễn hình ảnh ghi hình cảnh
đó. Điều đó đúng, nhưng quá trình này không chỉ đơn giản như vậy. Sự chuyển biến
từ kịch bản ban đầu đến những hình ảnh trên màn ảnh rộng diễn ra qua ống kính của đạo diễn hình ảnh. Làm phim là tập hợp những gì có sẵn và lọc qua một thiết bị-
máy quay. Trước khi ghi hình cảnh đầu tiên, tất cả chỉ có hợp đồng, ý tưởng,
khái niệm, kịch bản, và hy vọng mà thôi.
Một khi phim đã khởi quay,
đạo diễn hình ảnh là người quan trọng thứ hai trong đoàn, chỉ sau đạo diễn. Làm
việc cùng nhau, đạo diễn và đạo diễn hình ảnh quyết định góc quay, bố trí, chuyển
động máy quay trong từng phân cảnh. Việc gì đã làm cho đạo diễn hình ảnh đặt
máy quay ở đây mà không là ở đằng kia? Janusz Kaminski cho rằng: "Tất cả
những kinh nghiệm cuộc đời của một người tạo ra mỗi chọn lựa sáng tạo của anh
ta. Đó là điều tạo nên dấu ấn riêng cho mỗi đạo diễn hình ảnh". Rồi họ chọn
ống kính và bộ lọc sáng phù hợp để có thể đạt được những nét cơ bản theo kịch bản
có trước, xác định độ sáng, dựng dụng cụ tạo sáng để tạo được hiệu quả và màu sắc
đặc thù. Sau đó đạo diễn hình ảnh cùng xem lại cảnh đã quay mỗi ngày để đánh
giá hiệu quả công việc và thay đổi kịp thời trong lần quay tới.
Vào giai đoạn cuối, đạo diễn
hình ảnh giám sát sự thay đổi của bản phim đầu tiên trong phòng kín để chắc chắn
độ sáng và phong thái các màu sắc chủ đạo phù hợp với những hình ảnh chất lượng
trên màn ảnh rộng cho khán giả thưởng thức. Đạo diễn hình ảnh bỏ nhiều thời
gian vào công việc, bù lại họ mang đến cho khán giả, trong vài giây phút ngắn
ngủi, cơ hội để đến một thế giới hoàn toàn mới lạ.
2.
Các vị trí khác trong nhóm quay phim
Nhà quay phim (Camera Operator)
Đạo diễn hình ảnh có phải
là nhà quay phim không?
Câu trả lời là "phải".
Trong những đoàn làm phim nhỏ, đạo diễn hình ảnh vẫn hay đảm nhận việc ghi
hình. Nhưng nhà quay phim không phải lúc nào cũng là đạo diễn hình ảnh. Nhà
quay phim thường sử dụng ánh sáng từ các hướng khác nhau để quay cận cảnh mặt
diễn viên. Đôi lúc trong những cảnh nhiều máy quay phim ở các góc độ, họ không
sử dụng ánh đèn nào cả. Nhà quay phim điều khiển máy quay, kiểm tra và chịu
trách nhiệm về các đoạn phim đã thực hiện: ánh sáng, góc nhìn, hình ảnh và sự
diễn đạt âm thanh. Họ cần nắm rõ cấu tạo của máy quay và thường giải quyết những
vấn đề kỹ thuật xảy ra trong suốt quá trình làm phim.
Đạo diễn hình ảnh thì thạo
sử dụng ánh sáng với nhiều kiểu và độ nhòe khác nhau. Trong những cảnh hoành
tráng, đạo diễn hình ảnh thường quản lý nhiều nhà quay phim lo riêng về các
chuyển động của máy quay. Sự khác biệt giữa hai chức danh, ngoài kinh nghiệm và
kỹ thuật, còn nằm ở khoản lương họ nhận được.
Trong những đoàn làm phim
lớn sẽ có thêm:
·
Trợ
lý quay phim thứ nhất (Focus Fuller) - thay ống kính, giữ máy quay hoạt động
theo đúng chế độ, giữ nguyên mục tiêu khi máy quay chuyển động, đánh dấu vị trí
diễn viên đứng và đo khoảng cách từ vật thể đến ống kính.
·
Trợ
lý quay phim thứ hai (Clap Boy) - chuẩn bị đạo cụ cho Trợ lý thứ nhất, thay
phim, điền vào bản báo cáo hoạt động và sử dụng clapperboard ở đầu hay cuối mỗi
phân cảnh.
Phụ trách ánh sáng (Gaffer)
Vai trò của người phụ
trách ánh sáng ảnh hưởng mật thiết đến sự thành công của một bộ phim. Nói cho
cùng, tất cả những công việc sản xuất như phông màn, đạo cụ, tài năng, và quay
phim đều phải dựa vào ánh sáng mới nổi bật được. Ánh sáng ẩu dễ làm hư một tác
phẩm nghệ thuật, và ngược lại, ánh sáng đẹp sẽ làm tăng thêm giá trị một bộ phim
bình thường.
Phụ trách ánh sáng quản lý
độ sáng, màu sắc, độ tương phản, nguồn sáng và tính tự nhiên của ánh sáng. Họ
cũng thường là người quản lý điện đóm, bảo đảm đủ năng lượng cho các độ sáng ở
mọi cảnh quay. Trong những cảnh rộng, họ thường có thợ điện và vài người thợ lắp
ráp giúp những việc tay chân cần thiết cho các yêu cầu điện đóm. Nhờ đó người
phụ trách có thể rảnh rang lo ánh sáng, cụ thể là thiết kế, sắp đặt, và điều
khiển những thiết bị ánh sáng và dàn đèn.
Kinh nghiệm và phong cách
là những yếu tố cần thiết để chọn một người quản lý ánh sáng. Kinh nghiệm rất
quan trọng. Lo ánh sáng cho một góc quay hay nhiều góc quay cùng một lúc là những
chuyện rất khác nhau. Nhiều người phụ trách ánh sáng đã vô cùng lúng túng khi
tìm cách lên đèn cho một cảnh sử dụng nhiều máy quay ở các góc độ, nhất là khi
họ đã quen với kiểu quay một máy. Nói về phong cách, đó là khả năng ghi nhớ bối
cảnh của một bộ phim. Ví dụ trong một bộ phim khung cảnh đồng quê, phụ trách
ánh sáng cần chú ý hạn chế kiểu ánh sáng thành thị màu mè.
Phụ trách ánh sáng phối hợp
chặt chẽ với đạo diễn hình ảnh để cùng làm tôn lên phong cách nghệ thuật của một
bộ phim. Họ thường đứng ở vị trí thứ ba, sau đạo diễn, đạo diễn hình ảnh (và
nhà quay phim, nếu có). Có câu chuyện kể rằng khi một vị đạo diễn hình ảnh nổi
tiếng và đáng kính được các sinh viên hỏi điều gì quan trọng nhất họ có thể làm
để nâng cao chất lượng hình ảnh, ông đã trả lời: "Hãy thuê người phụ trách
ánh sáng tốt nhất có thể, thậm chí chia một phần lương của mình cho anh
ta".
Trợ lý ánh sáng (Best Boy)
Trong những đoàn làm phim
lớn sẽ có trợ lý ánh sáng. Trợ lý làm việc chủ yếu với đạo diễn hình ảnh và là
cánh tay phải của người phụ trách ánh sáng. Công việc chủ yếu của họ là bảo đảm
điện năng, chăm lo cho nhóm quay phim, lắp đặt thiết bị, quản lý công việc giấy
tờ, và thuê thêm người nếu có những cảnh quay lớn phức tạp. Đôi lúc khi quản lý
ánh sáng quá bận, người trợ lý này phải luôn luôn sẵn sàng để phụ việc hoặc làm
thay người phụ trách ánh sáng.
Một khi đạo diễn hình ảnh
và phụ trách ánh sáng đã hội ý xong, công việc của trợ lý ánh sáng là lên đèn ở
độ sáng và mờ cần thiết để phối hợp với tốc độ phim, tương phản, thiết bị lọc
sáng, ống kính, và loại phim. Thường những bóng đèn họ sử dụng là những bóng
đèn lớn (12 - 36 KW) và cần khá nhiều điện năng. Vài loại bóng đèn
họ sử dụng được thiết kế đặc biệt chỉ dùng để bắt chước ánh sáng ngày (đèn HMI) hoặc đêm (đèn Tungsten). Họ cũng có những loại keo để tạo ra nhiều màu sắc
khác nhau và làm ánh sáng nhạt hơn.
Hậu đài (Grips)
·
Key
Grip: Quản lý các nhân viên hậu đài. Đồng thời đây cũng là người tháp tùng và
mang theo đầy đủ đồ nghề cho nhà quay phim đến những địa điểm quay.
·
Second
Company Grip: Đặt hàng dụng cụ cần thiết cho công việc hậu đài ở mỗi phim.
·
Crane/
Dolly Grip: Người thiết kế đường ray máy quay, điều khiển tay cẩu máy quay hoặc
lo phần "chân" của các máy quay, như cây chống, cây dù đủ cỡ...
· Construction
Grip: Dựng/ tháo phông màn, dựng dàn đèn, bảo trì phông cảnh.
· Company
Grips: Giúp việc lặt vặt cần thiết khi dựng cảnh.
3. Một
số kỹ thuật quay phim
Góc quay là góc nhìn từ
máy quay với chiều sâu, chiều dài, chiều rộng cân xứng với vật hay hành động được
quay. Góc nhìn từ máy quay không chỉ quyết định cái gì sẽ xuất hiện trong cảnh
đó mà nói chung còn là cách khán giả sẽ nhìn sự việc - gần hay xa, từ trên xuống
hay từ dưới lên, chủ quan hay khách quan…
Do đó sự chọn góc quay
không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ câu truyện mà còn thể hiện chất lượng thẩm mỹ của
cảnh quay và quan điểm tâm lý của khán giả. Qua nhiều năm, đạo diễn và nhà quay
phim đã thành lập một kiểu quy ước liên quan đến kỹ thuật, thẩm mỹ và đặc tính
tâm lý của nhiều góc quay khác nhau.
Góc ngang (vừa tầm mắt) để
diễn tả cảnh giống như thật nhưng ít kịch tính. Người ta cho là nó cung cấp cái
nhìn bình thường và thường quay từ độ cao 1.2 - 1.8 m. Tầm mắt của nghệ sĩ
(chứ không phải của nhà quay phim) quyết định chiều cao của máy quay, và đặc
biệt chủ yếu trong những khi quay cận cảnh. Vì hướng nhìn bình thường nên cảnh
quay góc ngang thường được sử dụng để tạo nên tình huống và chuẩn bị cho khán
giả một cảnh liên quan.
Trong cảnh quay góc cao
máy quay nhìn xuống sự vật. Theo kỹ thuật thì nó có thể cho phép đạo diễn có
cái nhìn bao trùm hết mặt đất và hành động trong chiều sâu. Cảnh như vậy cũng sẽ
có khuynh hướng làm chậm hành động lại và giảm bớt độ cao của sự vật hay nhân vật
(theo luật xa gần). Nét đặc trưng cuối cùng này có thể gây ra nhiều hiệu quả
tâm lý phụ, ví dụ như cho khán giả cảm giác mạnh mẽ hơn nhân vật trên màn ảnh
hay ngụ ý hạ thấp tầm quan trong của bất cứ nhân vật nào với những người hoặc
khung cảnh xung quanh.
Trong phim của Murnau The
Last Laugh, diễn viên Emil Jannings thường được quay từ trên xuống sau sự sụp đổ
của ông, trong khi trước đó các cảnh miêu tả ông như là một ông gác cổng kiêu
hãnh thường được quay ở góc thấp. Trong cảnh quay góc thấp, máy quay thường đặt
ở dưới nhìn lên sự vật. Hiệu quả của cách này thường là để tạo kịch tính, tạo
nên sự xuyên tạc quyền lực của viễn cảnh và toàn bộ sự việc. Nó thường đẩy
nhanh diễn biến phim, thêm tầm cao và sức mạnh cho nhân vật.
Sự sắp đặt máy quay góc thấp
chiếm ưu thế trong phim Citizen Kane của Orson Welles để làm nổi bật sự to lớn
phi thường của ông trùm báo chí. Để chấp nhận việc thường xuyên sử dụng kiểu
quay này, Welles đã phải xây dựng phim trường toàn là trần nhà. Chính sự có mặt
khắp nơi của trần nhà ở cảnh nền đã tạo nên một trong những nét đặc trưng khác
thường của Citizen Kane. Chỉ đơn thuần thay đổi góc quay, đạo diễn có thể không
chỉ cho thấy sự thăng trầm trong cuộc đời nhân vật mà còn thổi vào thái độ khán
giả phải chấp nhận qua những cá tính và hành động trong phim.
Sự đa dạng trong các góc
quay là vô tận. Không có luật lệ nào về chuyện phải sử dụng góc quay nhất định
cho một cảnh nào đó. Góc ngang, góc cao và góc thấp chỉ là những nhóm chính,
như là cách quay cạnh (thêm một chiều nữa cho sự vật), góc Hà Lan / khung
nghiêng (nhìn sự vật trong cái nhìn nghiêng hiệu quả cao) và rất nhiều góc
quay khác được sử dụng cũng như chưa được biết đến qua bao nhiêu thập kỷ làm
phim.
Chuyển động máy quay là sự
di chuyển ngang, dọc, theo đường ray (sự chuyển động của máy quay trên một đường
ray ngắn đặt sẵn quay theo vật thể di chuyển) và phóng to thu nhỏ. Có những
quy ước quan sát quốc tế dành cho chuyển động máy quay. Theo quy định, một nhà
quay phim sẽ chạy máy quay ở vị trí nhất định trong một thời gian ngắn trước
khi bắt đầu chuyển động, và đứng im một lần nữa sau khi hoàn tất chuyển động.
Luật lệ này không chỉ giúp cho hình ảnh chuyển động uyển chuyển mà còn cho phép
biên tập viên có sự lựa chọn giữa cảnh tĩnh và cảnh động khi đang chỉnh sửa
phim.
Một cách nhìn thoáng hơn về
luật này là chuyển động bắt đầu và kết thúc ở một điểm đặc biệt nào đó đã được
chọn sẵn và quay tập nhiều lần trước khi quay chính thức. Đạo diễn hình ảnh
trong trường hợp này khá quan trọng trong việc quyết định chuyển động máy, ví dụ
sau một cảnh quay ngang từ trái sang phải không thể nào có cảnh quay ngang từ
phải sang trái, hay là sự chuyển động của nghệ sĩ từ trái sang phải không thể
theo sau một sự chuyển động khác từ hướng ngược lại.
Ngoài kiểu quay thường còn
có kiểu quay cầm tay, một máy quay xách tay nhẹ cân cầm trên tay của nhà quay
phim và dựa vào vai của người đó mà không cần dùng chân chống. Kiểu quay này bắt
nguồn từ nhà quay phim thời sự và được sử dụng rộng rãi trong các phim tài liệu
và những nhà làm phim tiên phong. Đầu những năm 60’ việc sử dụng máy quay phim
cầm tay trong việc sản xuất phim điện ảnh ngày càng tăng, vừa tiện lợi vừa đạt
được cảm giác thật hơn trong một số cảnh quay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét